Phân tích bức tranh mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông:

Song song đôi bướm trắng

Phất phới phấn hoa bay.

(Buổi sớm mùa xuân)

 Ta thấy thắm đượm một mùa xuân xanh tươi đầy sức sống trong thơ đại thi hào Nguyễn Du:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

(Truyện Kiều)

Ta rạo rực dõi nhìn một cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc:

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,

Hai hàng chân ngọc duỗi song song.

(Đánh đu- Hồ Xuân Hương)

Và đây là thơ xuân của Thanh Hải:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

ơi con chim chiền chiện

Hót chi mù vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng…

Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của “Huế đẹp và thơ”, quê mẹ hương yêu của thi sĩ Thanh Hải.

 Hai câu thơ đầu là một bức tranh xuân rực rỡ sắc màu, ngập tràn sức sống. Có màu xanh của sông, màu tím của hoa. Một sự kết hợp không thể hài hòa hơn về màu sắc, mang đến cho con người sức sống từ trong tâm hồn.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bài thư trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tố Hữu tâm sự:

Hương Giang ơi, dòng sông êm

Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình…

“Bông hoa tím biếc” mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội:

Hoa lục bình tím cả bờ sông.

Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh” thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non lơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “tím biếc” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp.

Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”:

Ơi! Con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

“Ơi” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiện hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiện làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiện hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa: “Chiền chiện hót lúa tốt bời bời “(Tục ngữ). Hai tiếng “hót chi” rất gợi cảm, là cách nói “dịu ngọt” của bà con “xứ Huế chúng miềng”.

Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế.

 Trong không gian ấy, Thanh Hải đã có 1 cảm nhận và một hành động hết sức mới lạ và đáng yêu.

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. “Từng giọt long lanh rơi” cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiện từ trời cao vọng đến, “rơi” xuống? Cái cử chỉ “đưa tay… hứng” thể hiện một hồn thơ chan hòa với thiên nhiên, đất ười, tạo vật.

Thơ đích thực mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao:\

Mặt trời lên càng tỏ

Bông lúa chín thêm vàng

Sương treo trên đầu cỏ

Sương lại cùng long lanh

Bay vút tận trời xanh

Chiền chiện cao tiếng hót…

(Thăm lúa – Trần Hữu Thung)

Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương mai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên.

Posted in Ngữ Văn Lớp 11 | Tagged , | Leave a comment

Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung

Nhà văn Nga Lêônit Lêônôp có viết:“Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung ”Anh, chị hãy bình luận ý kiên trên.

YÊU CẦU

  1. Hiểu đúng nội dung cối lõi câu nói của Lêônil Lêônôp nêu ở đề bài: bản chất sáng tạo của sáng tác văn học. Đâv là vấn đề đã được nhiều người nói đến, hằn; những cách diễn đạt khác nhau. Chẳng hạn trong Đời thừa, Nam Cao cũng đã phát biểu một cách cô đúc: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
  1. Thấy được đây là ý kiến đúng. Yêu cầu “mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” là xuất phát từ đặc thù của sáng tạo văn học: Mỗi tác phẩm văn học (có thể nói rộng ra là nghệ thuật) luôn luôn là một công trình duy nhất, không thể lặp lại. Do đó, không sáng tạo thơ không có văn học, thì nhà văn tự xoá bỏ mình.

–      Sáng tạo trước hết là “khám phá về nội dung” (tức là nói một cách chặt chẽ, qua sáng tác, nhà văn phải thể hiện những tư tưởng, những quan niệm mới mẻ về cộc sống và xã hội). Đồng thời, nhà văn còn phải “phát minh” (tức là phát hiện và tìm tòi những cái mới, có ý nghĩa) về hình thức nghệ thuật. Đây chính là hai yêu cầu đan xen của tác phẩm nghệ thuật.

–      Tuy nhiên, nếu không có khám phá về nội dung thì cái mới về hình thức (nếu có) sẽ rất ít ý nghĩa

–      Nhưng, sáng tạo phải trên cơ sở đảo sâu, tìm tòi và luôn có sự kế thừa chứ không phải chỉ chạy theo cái mới, cái lạ.

  1. Chọn lọc, phân tích được một số tác phẩm thật sự tiêu biểu, chẳng bạn như của Nam Cao. Xuân Diệu,… để khẳng định ờ những tác phẩm ấy rõ ràng là có “khám phá về nội dung” và có “phát minh về hình thức”. Nếu không chọn được tác phẩm tiêu biểu thì việc phân tích sẽ rất khó khăn, ít thuyết phục được người đọc. Thực tế, không phải tác phẩm nào cũng đạt được trọn vẹn cả hai yêu cầu này. Hơn nữa, không phải ở tác phẩm nào cũng có thể phân tích được rõ nét từng yêu cầu. Có lẽ tốt nhất đối với số đông học sinh, việc chọn tác phẩm của Nam Cao hoặc Xuân Diệu đã học trong chương trình để phân tích thì thuận lợi hơn.

Đề bài trên đây có vẻ thiên về lí luận và để hiểu đứng vấn đề này không phải là khó. Cái khó thực chất lại là việc phân tích lác phẩm theo định hướng cụ thể. Chẳna hạn, phân tích truyện Chí Phèo phải thấy được sự “khám phá” của Nam Cao về nội dung. Cùng viết về nông dân, nhưng Nam Cao đã không dừng lại ở việc lên án xã hội cũ khiến người nông dân bị bần cùng hoá như không ít những cây bút hiện thực khác, mà ông còn tố cáo đanh thép xã hội đã biên người lương thiện thành thú vật. Nhà văn không chỉ đồng cảm, xót thương cho người nông dân bị bóc lột, đoạ đày, mà còn phát hiện ra ngay cả khi lựa hồ đã bị biến thành “quỷ dữ” thì phẩm chất cao đẹp của họ cũng không bị tiêu diệt. Tác phẩm Chí Phèo còn là một mình chứng hùng hồn: Nam Cao đã có những “phát minh về hình thức”. Đấy là bút pháp xây dựng nhân vật điển hình, là sở trường phát hiện và miêu tả tâm lí, là cách trần thuật tự nhiên, linh hoạt, là lối kết cấu phóng túng mà chặt chẽ, là ngôn ngữ sống động, đan xen nhiều giọng điệu…

Mỗi tác phẩm văn học là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung

Mỗi tác phẩm văn học là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung

BÀI LÀM

Ai hào dính vào duyên bút mực Suốt đời mang lấy số long đong Nguyễn Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chịu nỗi đau vì sự bạc bẽo của văn chương. Tại sao như vậy? Phải chăng bởi nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ, đúng như Lêônil Lêônôp yêu cầu: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”.

Cũng như ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Macxim Gorki, … nhà văn Nga Lềônil Lêônôp muốn khẳng định các nhà nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi một tác phẩm phải là một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy, cái mới, cái độc đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ở sự tìm tòi cái mới về nghệ thuật cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện, nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức riêng biệt, độc đáo. Đúng như vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật.

Cuộc sống phơi bày ra trước mắt mỗi người biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những người bình thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm hồn, làm phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tác phải đem đến cho họ một cách nhìn mới, mang đậm dấu ấn chủ quan.

Cuộc sống là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biết và hứng thú của nhà văn thì có bạn. Do đó, ngoài việc tìm đến những mảnh đất mới của hiện thực để gieo mầm tư tưởng, người nghệ sĩ phải biết phát huy cái vốn ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì mới mẻ trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một con đường riêng để đến với cuộc sống và với trái tim bạn đọc. Lep Tônxtôi đã từng nói với những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, anh có đem đến cho chúng tôi một cái gì mới khác với những người đến trước anh không? Bàn về thơ, Nguyễn Tuân cũng khẳng định: “Thơ là mở ra được cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị phong kín”.

Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mĩ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó, mỗi tác phẩm trước hết phải là một “khám phá về nội dung”. Muốn vậy, nhà văn không thể chỉ là “người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho”, mà phải “biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Nhà văn phải biết nhìn sâu vào cuộc sống, hiểu tâm hồn của con người để khám phá ra những vân đề mới, cất tiếng nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung lả nội dung của hình thức và hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tự tìm cho mình một hình thức mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo những biến đổi về nội dung. Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời, nhưng lại nói bằng giọng điệu riêng, âm sắc riêng của tâm hồn mình; do vậy, tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới đáng quý.

Cái độc đáo, sự sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách riêng của người nghệ sĩ. Phong cách không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được, cái mới không chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ thuần tuý đi tìm cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ cái mới của nội dung. Khi cả tác phàm toái lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ phải đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác lại vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa.

Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chảy văn học một cách cảm nhận mới, một niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điều đó sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển, sự phong phú của nền văn học. Mỗi giai đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác.

Trong văn mạch dân tọc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại đề lại một khí dấu, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lệ cẳm hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi vào ngợi ca cảnh thái bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kì này là một tiếng kêu thương thống thiết và một tiếng nói mạnh mẽ khẳng định quyền sống của mỗi cá nhân, sang giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu nước mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu thế kỉ XX, các thi sĩ phong trào Thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái “tôi” cá nhân của mình. Mỗi thời đại có một nét riêng và cái riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm hưởng khác nhau. Thú vị nhất, độc đáo nhất đối với người đọc là sự lắng nghe những giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh ta có thể nói lên được điều gì mới lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng.

Cùng viết về người kĩ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du. Xuân Diệu, Tố Hừu, mỗi người có một cách nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc Tì bà hành, thi sĩ họ Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể hiện nỗi đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát người kĩ nữ cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy ta vẫn gặp trong văn học cổ điển. Thấm thìa mà nhẹ nhàng, nỗi sầu muốn lan ra cùng cảnh vật:

Bên Tầm Dương canh khuya đưa khách

Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.

Không hiểu sao hai chữ canh khuya với mỗi tâm hồn Việt Nam lại có sức gợi đến thế? Không chỉ gợi cái khuya của thời gian mà còn như chứa sẵn trong đó cảm giác bất trắc, muộn màng, e sợ. Nỗi buồn lan ra theo những dải tơ trời, khiến không gian như lặng ngắt để lắng vào cõi tâm tư, thâm vào lòng người và tràn ra thành dòng lệ. Nỗi đau ở đây là sự cộng hưởng của hai nguồn yêu thương: thương người và thương thân, tạo mối tình tri âm tri kỉ, nói đúng hơn là tạo nên sự xót thương, đồng cảm giữa những nạn nhân đau khổ cùng một lứa bên trời lận đận. Mang lấm lòng đầy yêu thương đến với cái đẹp, Nguyễn Du lại nhìn thấy trong thân phận bất hạnh của người ca nữ đất Long Thành cả lẽ hưng phế của thời cuộc bể dâu, của một đời người đã trải qua bao cơn sóng gió, bao phen giang sơn thay chủ đổi ngôi. Cảm quan dâu bể thấm sâu trong từng câu chữ, tạo thành nỗi thương người, thương đời da diêt của nhà thơ.

Tất cả những cảm thương, đau đớn ấy thể hiện nhửng nét tâm lình của con người trung đại, yêu thương mà bất lực, bất lực nhưng vẫn lặng lẽ nếm chịu nỗi đau. Sang đến thơ mới. cái “tôi” cá nhân thức dậy với sự tự ý thức về bản ngã rất mãnh liệt, ở một hồn thơ cuồng nhiệt như Xuân Diệu, hình ảnh người kĩ nữ không đau xót một cách ngậm ngùi, nàng như run lên vì đau khổ và giá lạnh:

Em sự lắm. Giá bang  tràn mọi nẻo

Trời đầy trăng  lạnh lẽo suốt xương da.

Nàng như một linh hồn cô đơn bị vây phủ bởi bốn bề lạnh lẽo. Cái lạnh xuyên thấm vào tâm can. Trăng không “trong vắt” một cách tĩnh lặng, xa xôi mà từ cái sáng của vầng trăng còn toả ra hơi lạnh và sự cô đơn.

Nếu như Bạch Cư Dị, Ncuyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ biết đau đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng, thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng. Từ trong hiện lại còn bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng. Nhà thơ khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay:

Ngày mai bao lớp đời dơ

Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay.

Như vậy, cùng viết về người kĩ nữ, các nhà nghệ sĩ đã gặp nhau ở sự đồng cảm, xót thương. Nhưng mỗi tác phẩm lại có một linh hồn riêng, tạo nên sức sống riêng. Nếu Bạch Cư Dị. Nguyễn Du viết bằng thể thơ Đường luật thì Xuân Diệu lại sử dụng thể thơ tự do; thoát khỏi sự gò bó về niêm luật.

Thiên nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ bởi mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đôi nét chấm phá cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy, nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác. Ta hãy cùng thưởng thức bức tranh thiên nhién trong thơ Nguyễn Trãi:

Nước biếc, non xanh thuyền gối bãi

 Đêm thanh, nguyệt bạc khách lên lầu.

Cảnh vật hiện lên như bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Màu xanh của nước hoà cùng màu xanh của non tạo nên một vẻ đẹp thanh nhã. Con thuyền gối bãi thật nhàn nhã, lặng lẽ. Cảnh tĩnh như không có một chúi xao động nào. Cả một bầu không khí thanh sạch, thơ mộng được mở ra. Nói cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy lung linh ánh sáng. Bốn nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Hình ảnh con người – chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc băng một cái tôi cá thể mà nói về mình như nói về ai đó, có thể là một khách văn chương. Tư thế con người là đang vận động, đi lên cao, nhưng sao vẫn tĩnh lặng như không, thi nhân thả hồn mình vào thiên nhiên, đắm say thiên nhiên, nhưng vẫn lặng lẽ, vẫn ung dung như đứng ngoài dòng chảy của thời gian, ức Trai giao hoà với cảnh vật, nhưng không hề làm cho nó động lên mà tất cả như ngưng đọng lại:

Đến thời Nguyễn Khuyến, thiên nhiên vẫn mang nét đơn sơ, tĩnh lặng ấy:

Trời thu xanh ngắt mấy  từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Từ xanh ngắt không chỉ gợi độ xanh mà còn gợi chiều cao, chiều sâu thăm thẳm. Không gian thanh sạch như được đẩy ra tới vô cùng. Cảnh có chuyển động, nhưng thật khẽ khàng. Cái lơ phơ vừa gợi sự thưa thớt của lá trúc trên cần trúc vừa gợi sự lay động nhẹ nhàng. Dường như cái lơ phơ ấy chỉ để nhận ra làn gió hắt hiu.

Cũng là mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở nên khác hẳn:

Những luồng run rẩy rung rinh lá …

Đã nghe rét mướt luồn trong gió.

Làn gió của Xuân Diệu không hắt hiu thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như một sinh thể ẩn vào trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá cây như run lên vì lạnh.

Từ vầng trăng trong thơ Nguyễn Khuyến đến vầng trăng trong thơ Xuân Diệu cũng khác hiệt biết bao. Với Nguyễn Khuyến, vầng trăng hiền hoà như người bạn muôn đời của thi nhân:

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng  trăng vào.

Vầng trăng cứ thế giãi lên thềm, cứ thế lọt qua song cửa, nơi giao lưu của tinh thần. Trăng với người đồng cảm, đồng điệu, nhưng tình cảm ấy cũng có cái gì đó lặng lẽ. Vầng trăng vẫn còn mang vẻ tự nhiên của tạo vật không lời.

Đến Xuân Diệu, trăng như có linh hồn, có tâm sự, trãng cũng thấm thìa nỗi cô đơn: thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Có thể nói, lòng yêu thiên nhiên ở Xuân Diệu mang cái đắm say của một hồn thơ khao khát sống, khao khát yêu đương mãnh liệt. Đọc Vội vàng, ta cũng thấy đây là “một phát minh về hình thức và mội khám phá về nội dung”. Không hiểu sao đến với bài thơ này nói riêng, thơ Xuân Diệu nói chung, tôi cứ nghĩ đến tiếng hát của chàng Daniyar trong truyện Giamilya của Aimatôp. Chàng trai ấy đã cất tiếng hát từ tình yêu mê đắm của mình, không phải chỉ mê đắm mội con người cụ thể mà là tình yêu đối vđi cả cuộc sống, cả đất trời này. Thực sự “Xuân Diệu ta nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Khi ông nói đến thiên nhiên cũng là nói đến niềm say đắm sự sống. Trái lim bồi hồi, rạo rực, băn khoăn ấy đã tự tìm cho mình bộ “y phục tối tân”, trút cái “áo cổ điển” đầy gò bó, tìm đến thể thơ tự do với những câu dài ngắn khác nhau. Thơ Xuân Diệu bài nào cũng có sự hăm hở, đắm say. Thi sĩ cuống quýt, hôi hả để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, chứ không chỉ lặng lẽ ngắm nhìn như các nhà thơ cổ.

Mỗi nghệ sĩ, khi đi sâu vào cuộc sống, đều nỗ lực tìm ra một cách khám phá mới lạ. cùng viết về nông dân, Nam Cao khác Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.. Chính những khám phá ấy đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn học. Đê tạo ra cái mới, người nghệ sĩ cần có tài năng, có năng khiếu bẩm sinh để phái huy cái riêng của mình. Cũng để tạo ra sự mới lạ, nhà văn không ihể xem sáng tác như một thế nghề chơi mà cần có sự khổ luyện, có sự đào sâu, tìm tòi.

Một nhà văn nước ngoài có nói, đại ý: Trong văn chương có những niềm hạnh phúc trong nỗi đau khổ tột cùng mà chỉ người nghệ sĩ mới hiểu được. Sáng tạo ra cái mới chính là kết quả của sự công phu và tài năng, nó tạo sức mạnh cho người nghệ sĩ chiến thắng quy luật băng hoại của thời gian.

Lê Thị Hồng Hạnh

Trường THPT chuyên Hùng Vương – Phú Thọ – Bài đoạt giải nhất

Posted in Nghị Luận Văn Học | Tagged , , , | Leave a comment

Phân tích truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn.

Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu).

Nội dung truyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính của truyện là viên quan phủ. Cốt truyện gồm ba cảnh, diễn tiến theo trình tự thời gian: Cảnh 1: Mưa to gió lớn, nước lũ dâng cao, đê sắp vỡ, dân chúng hối hả đắp đất giữ đê. Cảnh 2: Đám quan lại, nha lệ, lính tráng mải mê đánh tổ tôm trong đình. Cảnh 3: Vỡ đê. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phản giữa sự ăn chơi hưởng lạc của những kẻ cầm quyền với nỗi cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó lên án gay gắt giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nhiệm trước tài sản, tính mạng của dân nghèo, đồng thời bày tỏ mối cảm thương sâu sắc của mình trước những đau thương, hoạn nạn của đồng bào.

Mở đầu truyện là tình thế vô cùng nguy hiểm của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn miêu tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian: Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.

Cảnh hàng trăm nghìn con người hốt hoảng, lo lắng, tất bật… tìm mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của nước lũ được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương: … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật thảm.

Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh: Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cù cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình:

Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu ?

Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy củng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viên quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ nha sai, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đường sau nó chứa chất thái độ mỉa mai, châm biếm và đầy phẫn uất.

Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc “phụ mẫu chi dân” cũng đích thân ra “chỉ đạo” việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở giữa đám dân đen đang vất vả, lấm láp, ra sức cứu đê mà là ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ: đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn được hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy… Đặc biệt là quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy trì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu. Dựng lên hai cảnh đôi lập tác giả có dụng ý tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, sống chết mặc bay của bọn quan lại phong kiến đương thời.

Trên cái nền là cảnh trăm họ lo toan chống giặc nước, chân dung “quan phụ mẫu” hiện lên rõ ràng qua những nét vẽ sinh động về hình dáng, cử chỉ, lời nói và diễn biến tâm lí nhân vật. Người đọc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tính mạng và tài sản của hàng nghìn con người đang bị đe dọa từng phút, từng giờ , vậy mà “quan phụ mẫu” vẫn điềm nhiên vui chơi, hưởng lạc. Xung quanh hắn bầy biện đủ thứ sang trọng, xa hoa: Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.

Sống chết mặc bay

Sống chết mặc bay

Quả là hoàn toàn trái ngược với hình ảnh: … mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít… trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê… Sự đối lập đó càng làm nổi bật tính cách ích kỉ, độc ác, vô nhân đạo của tên quan phủ và thảm cảnh của dân chúng; đồng thời góp phần gia tăng ý nghĩa phê phán gay gắt của truyện.

Trong khi thảm họa vỡ đê khủng khiếp đang đập vào mắt dân chúng thì bọn nha lại tay chân vẫn cúc cung hầu hạ quan lớn đánh bạc. Tuy chỉ là một cuộc chơi, lại chơi trong khi làm nhiệm vụ đôn đốc dân phu hộ đê nhưng quan lớn vẫn giữ cái trật tự trên dưới và không khí tôn nghiêm, nghi vệ như ở chốn công đường: Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bài. Mặc cho dân tình nháo nhác, khổ sở, quan vẫn mải mê dồn hết tâm trí vào các quân bài tổ tôm. Cung cách ấy tố cáo bản chất xấu xa cùng thái độ vô trách nhiệm đến mức vô nhân đạo của hắn.

Nếu ở trên mặt đê, không khí sôi động, nhốn nháo, hối hả với công việc cứu đê thì trong đình không khí cũng rộn ràng với những lời lẽ xoay quanh ván bài đen đỏ: Bát sách ! Ăn; Thất văn,… Phỗng, lúc mau, lúc khoan dung, êm ái, khi cười, khỉ nói vui vẻ, dịu dàng… Ngoài kia, đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy không bằng nước bài cao thấp .

Sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại dưới quyền diễn ra ngay trên mặt đê, trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mối hiểm nguy, chết chóc đang đe dọa sinh mạng, tài sản của bao người? Phải! Hắn ta đâu cần biết những điều đó vì quanh hắn lúc nào cũng có bọn tay sai nịnh nọt, hầu hạ, dạ vâng… Chúng thi nhau tỏ ra cho quan biết là: Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng: Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng cố ý nhường cho quan thắng bài liên tiếp để lấy lòng quan lớn. Sau khi quan xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh rung đùi, vuốt râu mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Có người bẩm báo là có khi đê vỡ, hắn trả lời thật phũ phàng: Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài.

Thú cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri: Ngài mà còn đang dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dù trời long đất lở, đê vỡ dân trôi thì ngài cũng thây kệ.

Tính cách của tên quan phủ được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ qua các cử chỉ, lời nói thật tiêu biểu, về cử chỉ: Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc… Về lời nói: Tiếng thầy đề hỏi: Dạ bẩm bốc. Tiếng quan lớn truyền: ừ. Khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi ! Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa à? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: Ù! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày !

Hàng loạt hình ảnh tương phản được tác giả sử dụng rất tài tình trong đoạn văn trên: Tiếng kêu vang trời dậy đất ngoài đê tương phản với thái độ điềm nhiên hưởng lạc của tên quan phủ. Lời nói khe khẽ sợ sệt của người hầu: “Bẩm, có khi đê vỡ” tương phản với lời gắt của quan cùng cái cau mặt: “Mặc kệ!” Hình ảnh người nhà quê, mình mẩy lấm láp, áo quần ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra hơi báo tin đê vỡ tương phản với hình ảnh quan lớn đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi… thời ông cách cổ chúng mày.

Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ đê, tác giả thể hiện nỗi xót thương và đồng cảm với dân chúng: Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!…

Thiên truyện khép lại bằng cảnh đê vỡ: Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi run miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !

Ở đoạn cuối truyện, tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả, vừa dùng ngôn ngữ biểu cảm để tả cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng: Cuộc sống lầm than đói khổ của nhân dân không phải chỉ do thiên tai gây nên mà trước hết và trực tiếp hơn cả là do thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ cầm quyền đương thời.

Về nghệ thuật, trong toàn bộ tác phẩm, bên cạnh phép tương phản thì phép tăng cấp đã được nhà văn sử dụng một cách khéo léo và tài tình, có tác dụng nhấn mạnh ý nghĩa của tác phẩm và khắc họa tính cách của nhân vật chính là tên “quan phụ mẫu”.

Phép tăng cấp thể hiện rõ trong việc miêu tả cảnh hộ đê dưới trời mưa mỗi lúc một dồn dập: Nước sông Nhị Hà lên to quá… Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống… Dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên giữa tiếng trống, tiếng tù và tiếng người gọi nhau sang hộ đê mỗi lúc một ầm ĩ, náo động.

Phép tăng cấp còn được vận dụng vào việc miêu tả cảnh tên quan phủ cùng đám nha lại đánh tổ tôm trong đình. Thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan mỗi lúc một tăng. Mê cờ bạc mà bỏ nhiệm vụ đôn đốc hộ đê đã đành. Đến khi có người dân phu vào báo tin vỡ đê mà vẫn thờ ơ, lại lên quát nạt bọn tay sai rồi quay lại tiếp tục đánh bài và vui sướng reo hò: “Ù! Thông tôm, chi chi này!” thì độ say mê cờ bạc quả đã làm cho quan lớn mất hết tính người. Nói theo lời của nhà văn thì là loại lòng lang dạ thú.

Nhờ khéo léo kết hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truyện ngắn “Sống chết mặc bay” đã đạt mục đích lên án gay  gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cảnh nghìn sầu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

Posted in Nghị Luận Văn Học | Tagged , | Leave a comment

Phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn”.

Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện, kể về Vân Tiên sau khi nghe tin mẹ mất đã bỏ khoa thi, cùng tiểu đồng vội vã trở lại quê nhà để chịu tang. Đang bơ vơ nơi đất khách thì hai người lại gặp Trịnh Hâm ở phần đầu tác phẩm, tác giả kể rằng khi Trịnh Hậm và Bùi Kiệm đến trước trường thi, gặp Vân Tiên và Tử Trực liền kết bạn và cùng nhau vào một quán rượu xướng hoạ thơ phú. Thấy Vân Tiên tài cao, xuất khẩu thành thơ, Trịnh Hâm lo lắng không yên:

Kiệm, Hâm là đứa so đo,

Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.

Khoa này Tiên ắt đầu công,

 Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.

Lòng ganh ghét, đố kị đó đã biến Trịnh Hâm thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm, ngay cả khi Vân Tiên không còn khả năng đe dọa bước đường công đanh của hắn. Nói như nhà nghiên cứu Hoài Thanh: Mối oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ.

Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn thể hiện sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn; đồng thời thể hiện thiện cảm của tác giả đối với những người nghèo mà giàu lòng nhân ái.

Bố cục đoạn trích chia làm hai phần: Tám câu thơ đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm. Phần sau miêu tả việc làm nhân đức, cuộc sống trong sạch và nhân cách cao cả của ông Ngư.

Ngoài Lục Vân Tiên là nhân vật chính còn có hai nhân vật phụ là Trịnh Hâm, tiêu biểu cho kẻ ác và ông Ngư tiêu biểu cho người thiện: Cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không mạnh mẽ như ở đoạn Lục Vân Tiên đánh cướp mà nhẹ nhàng, thấm thía, đẹp như trong truyện cổ, vẻ đẹp của cái thiện toả ra từ nhân vật ông Ngư, với cuộc sống an bần lạc đạo: Thuyền nan một chiếc ở đời…

Lúc này, dường như thầy trò Vân Tiên lâm vào bước đường cùng nơi đất khách. Tiền thì hết, mắt đã mù. Gặp lại Trịnh Hâm, Vân Tiên mừng vì tưởng được giúp đỡ, nhất là khi nghe hắn hứa sẽ đưa về tận nhà. Không ngờ Trịnh Hâm lừa Tiểu Đồng vào rừng, trói vào gốc cây. Sau đó, hắn nói dối Vân Tiên là Tiểu Đồng đã bị cọp vồ. Vân Tiên chi còn trơ trọi một mình.. Lúc này, kẻ tiểu nhân mới thực hiện hành vi tàn độc:

Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.

Trịnh Hâm khi ấy ra tay,

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,

Cho người thức dậy lấy lời phui pha.

Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.

Vì sao Trịnh Hâm cố tình hãm hại Vân Tiên? Nguyên nhần do hắn đố kị, ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên và lo cho con đường tiến thân của mình bị người khác cản lối. Khi mối lo đó không còn vì Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn tìm cách hãm hại, chứng tỏ sự ác độc dường như đã thấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất của hắn. Cái ác không có giới hạn, kẻ ác không bao giờ chùn tay.

Hành động của Trịnh Hâm vừa bất nhân, vừa bất nghĩa. Độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hãm hại một con người tội nghiệp trong cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có khả năng tự vệ. Bất nghĩa vì Vân Tiên từng coi hắn là bạn, từng trà rượu, xướng hoạ thơ phú cùng nhau, Vân Tiên cũng đã có lời nhờ cậy: Tiên rằng: tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen nầy và hắn cũng từng hứa hẹn: Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.

Hành động độc ác của Trịnh Hâm được hắn mưu tính, sắp xếp khá kĩ lưỡng. Thời gian gây tội ác là Đêm khuya lặng lẽ như tờ, khi mọi người đã ngủ yên. Giữa trời nước mênh mông mịt mờ sương bay, Vân Tiên bị xô ngay xuống vời, hoàn toàn bất ngờ, không kịp kêu lên mội tiếng. Đến lúc biết là không ai có thể cứu được Vân Tiên thì Trịnh Hâm mới giả tiếng kêu trời, rồi kể lể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm gian ngoan, xảo quyệt đã phủi sạch tay mà không mảy may cắn rứt lương tâm.

Chỉ qua tám dòng thơ, tác giả đã miêu tả tội ác tày trời và bóc trần tâm địa của một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Đoạn thơ giống như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, tình huống, diễn biến và được kể bằng ngôn ngữ chân thực, tự nhiên, gây xúc động mạnh. Người đọc, người nghe càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì càng căm ghét gã Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu!

Lục Vân Tiên gặp nạn

Lục Vân Tiên gặp nạn

Trái với hình ảnh Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác là hình ảnh ông Ngư và gia đình ông tiêu biểu cho cái thiện. Cả gia đình vất vả trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé nhưng nhân cách và quan niệm sống của họ mới rộng lớn, cao cả làm sao! Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng nhân ái, hào hiệp của ông Ngư. Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống đói nghèo hẩm hiu tương rau nhưng đầm ấm tình người. Ông cứu người mà chẳng hề tính toán: Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Cái Thiện được biểu hiện trọn vẹn và ngời sáng qua việc làm nhân đức và tính cách cao cả của ông Ngư.

Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn vớt ngạy lên bờ rồi:

Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.

Sự việc được kế lại ngắn gọn nhưng thể hiện được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với chàng trai họ Lục.

Cả gia đình ông lão mỗi người một việc, lo cứu sống người. Không cần biết nạn nhân đó là ai, cứ thấy bị nạn là cứu, thấy việc nghĩa là làm. Đó là bản chất cao quý của những con người lao động nghèo khó, lương thiện. Khi Lục Vân Tiên tỉnh dậy, xúc động kể lại sự tình và bày tỏ lòng biết ơn:

Nay đà trôi nổi đến đây,

Không chi báo đáp mình nầy trơ trơ.

thì Ngư ông đáp luôn:

Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.

Lời lẽ của ông Ngư bộc trực, khảng khái, đúng là cung cách và giọng điệu của người dân Nam Bộ, nghe thấm thía vô cùng. Ông không hề có ý nghĩ làm ơn sẽ được đền đáp bằng tiền bạc, của cải. Ông chỉ dốc lòng nhân nghĩa, cứu người gặp nạn. Hành động và lời nói của ông Ngư thật hào hiệp, vô tư. Nghe Vân Tiên kể về tình cảm éo le, đau khổ của chàng, ông lão thương đứt ruột, hành động cứu người của ông tuy lặng lẽ, âm thầm nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp Lục Vân Tiên thoát khỏi bàn tay tàn độc của Trịnh Hâm. Trái tim nhân hậu của ông Ngư thật đáng kính trọng biết bao!

Cái thiện còn được biểu hiện qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư. Quan điểm của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là những ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống phóng khoáng giữa trời cao đất rộng, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng… Con người tự do, tự tại nên tâm hồn vui vẻ, nhân hậu, khác xa với những kẻ sống trong những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa…

Trên chiếc thuyền nan bé nhỏ, mong manh ấy, ông Ngư đã sống cuộc sống thật ý nghĩa. Ngỡ như không phải ông nói, mà là đang ngân nga cất tiếng hát ca ngợi lối sống thanh cao của những bậc chính nhân quân tử trọng nghĩa khinh tài. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ nghe như có tiếng phách, tiếng đàn thong thả đệm theo lời ông già Nam Bộ hát Vân Tiên. Hát rằng:

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.

Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng…

Đây là một trong những đoạn thơ hay của tác phẩm. Ý thơ phóng khoáng, sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm. Vũ trụ bao la, thiên nhiên tuyệt mĩ với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, mặt đất, gió trăng… Con người hoà nhập trong cảnh đẹp ấy không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… Tác giả sử đụng rất nhiều từ miêu tả trạng thái tâm hồn thanh thản của ông Ngư; vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say… Tưởng như chính nhà thơ đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.

Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước đề rửa ruột sạch trơn, tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh…, ông Ngư đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Gia đình, nhà cửa, cả thân xác lẫn tâm hồn như đã hoà làm một với biển trời, sông nước. Cặp từ hứng gió, chơi trăng phác hoạ hình ảnh con người lao động nhưng lại có tâm hồn bay bổng, mơ mộng của một thi nhân. Mơ mộng nhưng cũng rất chủ động, ung dung:

Một mình thong thả làm ăn

Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.

Câu thờ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những mái chèo khỏa nước lúc nhặt lúc khoan, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ. Cuộc sống tự đo của ông Ngư hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao!

Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông Ngư nói đến chữ vui: vui vầy, vui thầm rồi vui say. Lúc nào cũng vui, càng lúc càng vui. Đi đây đi đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè gặp bạn thì vui vầy. Giừa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn vui thầm. Ý thức sâu sắc về lối sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này là động lực đế ông vui say, nghĩa là lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ông Ngư càng bay bổng. Men rượu đă ngấm, hồn thơ cất cánh, ông Ngư đã hoá thành triết gia, thành nghệ sĩ:

Kính luân đã sẵn trong tay

Thung dung dưới thế vui say trong trời

Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.

Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa sông dài biển rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ông Ngư gắn liền với chiếc thuyền nan ấy. Hình ảnh chiếc thuyền nan cũng như hình tượng nhân vật ông Ngư được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nên từ sự thăng hoa của cảm hứng lãng mạn. Dường như nhà thơ đã nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, hoà hợp với đất trời. Cuối đoạn trích, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như ánh trăng trải trên mặt nước, như mặt nước được mái chèo nhẹ nhàng khua động lung linh.

Trong văn chương thời trung đại, hình tượng Ngư – Tiều dường như đã được dùng để ám chỉ những ẩn sĩ muốn trốn tránh cuộc đời đen bạc, nhiễu nhương, tìm về với thiên nhiên trong sáng: Ôm tài giấu tiếng làm Tiều, làm Ngư (Ngư-Tiều y thuật vấn đáp).

Nguyền Đình Chiểu rất quen thuộc với bút pháp ước lệ cổ điển, cho nên qua những lời nói của ông Ngư, ông Tiều, ta thấy bóng dáng của họ giống ẩn sĩ hơn là người lao động bình thường (Kinh luân đã sẵn trong tay). Tuy nhiên, cảm xúc của người đọc, người nghe đối với những nhân vật này không hoàn toàn là thế. Ông Ngư trong đoạn thơ này và ông Tiều trong đoạn thơ sau cùng có một cách nói giống nhau về cuộc sống của mình:

Tiều rằng: vốn lão tình không,

Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.

Tấm lòng chẳng muốn của ai,

Lánh nơi danh lợi chông gai mặc lòng.

Kìa non nọ nước thong dong,

Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.

Công hầu phú quý mặc ai,

Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.

Họ hiện diện giữa đời sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự bạc đen, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn và bao giờ cũng có mặt đúng lúc để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghĩa khinh tài: Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: Với Đồ Chiểu, những người lao động ấy cũng là những người có tài, ghét đời ô trọc mai danh ẩn tích.

Đọc truyện thơ Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta còn gặp những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất tốt đẹp của người lao động và đạo lí truyền thống dân tộc. Ông Ngư – nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn cửa nhà của Nguyền Đình Chiều?

Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn là kiểu kết cấu thông thường ở các truyện cổ dân gian. Ở đây, người tốt thường gặp hoạn nạn, bị hãm hại nhưng lại luôn được cứu giúp có khi là con người (ông Ngư), có khi là thần linh (giao long). Kiểu kết câu này còn được lặp lại ở một số tình tiết khác, nhưng truyện vẫn không bị coi là nhàm chán. Bởi nó thế hiện niềm tin và ước mong của những con người bị áp bức, khó bề chống đỡ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công. Niềm tin ấy xuất phát từ triết lí nhân sinh đã thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bao đời nay : Ở hiền gặp Lành.

Posted in Ngữ Văn Lớp 10 | Tagged , | Leave a comment

Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam

Thành công của những bài thơ thu này cũng chứng tỏ tâm hồn tinh tế, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến. Chúng đưa ông lên địa vị danh dự trong các thi nhân viết về mùa thu, trong những nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.

I-TÌM HIỂU ĐỀ

Đề bài yêu cầu chứng minh một nhận định của Xuân Diệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến, nghĩa là đi vào một phương diện đặc sắt nổi bật trong sáng tác của nhà thơ cổ điển lớn này. Phạm vi tư liệu phân tích, dẫn chứng là chùm thơ thu gồm ba bài: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm

Mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến cảm nhận, diễn tả cảnh sắc mùa thu ở làng quê Việt Nam từ một góc độ, thời điểm khác nhau. Để làm sáng tỏ nhận định của Xuân Diệu, cần phân tích đặc sắc riêng của từng bài thơ Thu vịnh. Thu điếu, Thu ẩm, nghĩa là cần chỉ ra sự quan sát tài tình, nhận cảm tinh tế của Nguyễn Khuyến trong từng trường hợp.

Cảnh sắc mùa thu trong các bài thơ trên không tách khỏi tấm lòng yêu mến và những tâm sự thầm kín của Nguyễn Khuyến. Tuy vậy, đề bài này không những hiểu về tâm trạng nhà thơ mà yêu cầu phân tích cảnh vật là chủ yếu.

II-DÀN BÀI CHI TIẾT

MỞ BÀI

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ cổ điển lớn của dân tộc ta. Sáng tác của Nguyễn Khuyến diễn ra trên nhiều đề tài với những nội dung cảm xúc phong phú. Trong đó có một đề tài nổi bật là miêu tả cảnh sắc thiên nhiên làng quê, sinh hoạt của con người thôn quê. Từ nhiều bài thơ cúa Nguyễn Khuyến hiện lên hình ảnh những làng quê đồng bằng Bắc Bộ yên ả, thơ mộng mà ông từng thiết tha gắn bó. Xuân Diệu đã nhận xét rằng “Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ sinh động cho nhận xét này. Đây cũng là những sáng tác vào loại đặc sắc nhất về mùa thu trong thơ ca Việt Nam ta từ xưa đến nay.

THÂN BÀI

1) Nhìn bao quát chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến

Viết chùm ba bài thơ về mùa thu, Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ nguồn cảm hứng dồi dào với mùa thu, với quê hương. Chính cảm hứng ấy với tài năng của thi nhân đã tạo nên giá trị đặc sắc của những bài thơ này. Lịch sử thi ca nhân loại từng để lại không ít vần thơ về mùa thu nhưng hiếm có những trường hợp nổi tiếng như chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Đọc thơ Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu đã nhận xét: “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là thơ Nôm. Mà thơ Nôm của Nguyền Khuyến nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”.

Mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến miêu tả, cảm nhận mùa thu ở một không gian, thời gian không giống nhau nhưng tất cả đó đều là những cảnh vật rất thật của nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ở đây, không hề có những ước lệ vốn đã thành quen thuộc trong thơ cổ. Một bầu trời xanh ngắt, ao thu trong veo, một cần trúc hắt hiu trong gió, một ngõ xóm quanh co, mấy gian nhà tranh mái rạ, một hàng giậu phất phơ bóng khói ban chiều… đó đều là những cảnh rất thân thuộc của làng quê Việt Nam. Nó yên ả thanh bình như vốn có tự ngàn đời chứ chưa hề động gót giày của quân xâm lược Pháp. Nó gợi trong ta cái tình quê, hồn quê sâu thẳm. Thi nhân đã cảm nhận những vẻ đẹp ấy của làng quê bằng tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn hậu và vô cùng tinh tế.

Nguyễn Khuyến - Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam

Nguyễn Khuyến – Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam

2)Thu vịnh (vịnh mùa thu)

– Bài thơ không tả mùa thu từ một nơi, trong một lúc mà là bức tranh tổng hợp, khá hoàn chỉnh về mùa thu. Ở đây hầu như có đủ những hình ảnh đặc trưng cho mùa thu ở thôn quê Việt Nam( bầu trời cao xanh, cần trúc mảnh mai, gió thu nhẹ, mặt nước biếc phu sương khói, ánh trăng trong, chùm hoa trước giậu…). Chỉ bằng mấy nét chấm phá, Nguyễn Khuyến đã gợi được cái hồn thu nơi từng cảnh vật Cảm nhận tinh tế của thi nhân được thể hiện rõ qua cách dùng từ:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào…

Cảnh mùa thu trong Thu vịnh thật thanh khiết, tĩnh lặng. Từ đường nét đến màu sắc, từ âm thanh đến vận động… cái gì ở đây cũng dịu, cũng nhẹ. Ấy cũng là đặc điểm tâm hồn Nguyễn Khuyến. Ông không hợp với những gì ồn ào, xô bồ, rực rỡ. Tâm hồn ông dễ xúc động với những vẻ đẹp thanh tao, uyển chuyển, những sắc màu sáng trong, dịu mát. Tâm hồn ấy cùng thường phả vào cảnh vật một chút hắt hiu, buồn rầu.

Không khí làng quê mùa thu ở Thu vịnh im ắng và phảng phất nỗi u hoài. Không gian và thời gian trở nên mông lung, không xác định trong tâm trạng bâng khuâng buồn của thi nhân:

Mấy chùm trước giận hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào…

Thế giới thiên nhiên này gợi lên cảm giác yên tĩnh trong trẻo và ngưng lọng ngàn đời. Trước những biến động ngang trái của cuộc đời, Nguyễn Khuyến muốn được mãi mãi ở trong vẻ đẹp thanh tĩnh của làng quê.

3) Thu điếu (câu cá mùa thu)

Bài thơ cảm nhận mùa thu từ một không gian xinh xắn, thơ mộng, từ điểm nhìn của một người câu cá.

-Mở đầu bằng một cảnh thu bình dị rất riêng của làng, quê đồng bằng Bắc Bộ: ao thu. Một thế giới tĩnh lặng, trong suốt mà trong đó mọi vật hài hòa nhẹ nhõm:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Những chuyển động, âm thanh trong thế giới thu này thật nhẹ nhàng và chỉ càng gây ấn tượng về sự đọng kết, sự tĩnh lặng. Làn sóng biếc chỉ “gợn tí”. Lá vàng cũng “khẽ đưa vèo trong gió thu… Hai câu thực tả cảnh gần, hai câu luận tả canh cao, cảnh xa để hợp tạo thành bức tranh thu yên ả, đượm buồn. Chỉ ở mùa thu mới có “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” ấy (ba  lần trong ba bài thơ thu đều xuất hiện bầu trời xanh ngắt). Cũng chỉ ở làng quê xứ Bắc đang độ thu mới có “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” ấy!

Trong bức tranh thu ở Thu điếu hiện lên hình ảnh cọn ngựời đang ngồi câu cá nơi ao thu lạnh lẽo”. Song con người này cũng chẳng hề đánh động thêm gì cho bức tranh. Trái lại, tư thế và tâm tưởng của con người chỉ tạo thêm ấn tượng về sự ngưng đọng mà thôi.

4)Thu ẩm (uống rượu mùa thu)

Đây là mùa thu được cảm nhận bằng tâm trạng của một người ngồi uống rượu. Lúc này, cảnh thu sẽ mang các ấn tượng nỗi niềm riêng – dường như cũng chập chờn, mờ tỏa. Có lẽ vì thế mà bài thơ có nhiều từ lấp láy và dùng vần “oe”.

Thu ẩm không miêu tả riêng một cảnh thu ở một thời điểm nào mà là sự “tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm” (Xuân Diệu). Bài thơ cũng không hề có một chữ “thu” (khác với “trời thu” ở Thu vịnh và “ao thu” ở Thu điếu). Vậy mà đọc lên ta nhận ra chính xác cảnh sắc thu quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đây là một mái nhà tranh bình dị trong ngõ tối vào đêm sâu lập lòe những con đom đóm:

Năm gian nhà cỏ thấp le te.

Ngõ tối đèm sâu đóm lập lòe.

Phải là “ngõ tối”, “đêm sâu” thì mới có thể thấy “đóm lập lòe”; ngược lại, cái lập lòe của con đom đóm ấy lại càng khiến cho ngõ tối bỗng tối hơn, đêm sâu thành sâu hơn… Đây là cảnh của buổi sáng sớm (hay buổi chiều) với khói nhạt phất phơ nơi lưng giậu. Rồi lại cảnh đêm trăng với mặt ao lóng lánh:

 Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

Làn áo lóng lánh, bóng trăng loe.

Lại một một bầu trời trong suốt ở buổi ban trưa hay ban chiều với màu xanh thăm thẳm:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.

Bài thơ tạo trong ta ấn tượng “phi thời gian” nhưng cũng gợi rất sâu vào không khí tĩnh mịch, trong lành vô cùng thân thuộc của thôn quê Việt Nam.

KẾT BÀI

Đến với chùm ba bài thơ thu của Nguyền Khuyến, ta bắt gặp những cảnh sắc không thể lẫn của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

Những bức tranh thu ấy được vẽ nên bằng tấm lòng yêu mến quê hương mình, bằng tình yêu cuộc sống thanh cao, tĩnh lặng chốn thôn quê của cụ Tam nguyên Yên Đổ.

Thành công của những bài thơ thu này cũng chứng tỏ tâm hồn tinh tế, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến. Chúng đưa ông lên địa vị danh dự trong các thi nhân viết về mùa thu, trong những nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.

Posted in Ngữ Văn Lớp 11 | Tagged , , , | Leave a comment

Hình ảnh mùa thu trong 3 bài thơ thu của Nguyễn Khuyến

Đối với các nhà thơ cận đại, kể cả các nhà Thơ Mới nữa thì mùa thu là mùa của cảm xúc, của thương nhớ. Trong làng thơ Việt Nam sau Nguyễn Khuyến, Tương Phố, Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu… đều có những bài thơ thu nổi tiếng

Tuy vậy, giữa Tam nguyên Yên Đổ và các nhà thơ mới đang có một khoảng cách. Thơ thu của Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm đà chân thực dù tác giả có gửi gắm vào trong thơ ít nhiều tâm sự. Thơ thu của các nhà Thơ Mới từ Giọt lệ thu (Tương Phố), Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) đến Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu, âm thanh mùa thu để gửi gắm tâm trạng đượm buồn hay lưu luyến bâng khuâng trước đất trời đã chuyển sang thu.

Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là hiện tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc của nhà thơ.

Cả ba bài đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi bài là một phác thảo với nét bút của nền hội họa phương Đông, không rườm rà loè loẹt mà cũng không gò bó khuôn sáo. Nhà thơ – họa sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta về một vùng chân quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thế kỷ này vào độ sang thu.

Thu vịnh phác họa khái quát những đặc điểm nổi bật về mùa thu.

Thu điếu dừng lại ở một không gian và thời gian cụ thể: trên một ao thu, vào một chiều thu, một ông già trên chiếc thuyền câu thả mồi đợi cá.

Thu ẩm quan sát cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau để thâu tóm những nét nên thơ nhất.

Cảnh thu trong Thu vịnh đã được nhà thơ phác họa như thế nào?

Phần lớn dung lượng bài thơ (6/8 câu) là thơ tả cảnh. Biên độ không gian và thời gian không hạn chế: một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm trăng đượm màu thu. Ta vẫn bắt gặp trời (c1-2), nước (c3), trăng (c4), hoa (c5) có điểm xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút nhưng điệu thơ, hồn thơ thì đã vượt khỏi khuôn sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý… của nét bút thơ và họa cổ điển.

Hình ảnh mùa thu trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến

Hình ảnh mùa thu trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến

Nét thu quán xuyến tất cả là bầu trời không ủ dột, quẩn quanh, tù túng mà cao vời vợi, cao ngất mấy tầng, cao hút tầm mắt… và thăm thảm màu xanh huyền diệu. Giữa thu bao la ấy, một khóm tre xa xa từ thôn vắng lả ngọn theo làn gió thu nhẹ nhàng uyển chuyển càng tô thêm sắc thu: Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu như làm sống động bầu trời vốn tĩnh lặng

Đối chiếu với trời thu là sông thu vào sáng tinh mơ, lúc màn đêm đã vén hay vào buổi chiều tà, lúc bóng ô vừa ngậm non đoài, thời điểm “long lanh đáy nước in trời”; nước biếc dội lên màu xanh thơ mộng tạo nên ảo ảnh màn khói mênh mông mà các nhà thơ cổ điểm thường gọi là “yên ba giang thượng” (khói sóng trên sông). Trời thu và nước thu. Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc (trời nước một màu) là như vậy.

Sau thu thiên, thu thuỷ là thu nguyệt. Trăng thu sáng dịu trong trẻo tuyệt trần. Xưa nay trăng vốn là bạn của thi nhân. Trăng là kẻ đồng hành chè tiên, nước ghín, nguyệt đeo về (Nguyễn Trãi); Một trăng, một bóng một người hoá ba (Nguyễn Huy Tự). Trăng là người chứng giám: Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng một lời song song (Nguyễn Du). Có khi trăng là kẻ thóc mách Gương Nga chênh chếch dòm song (Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến không cài song để đón trăng và ngắm trăng chẳng biết trăng ở đây có đòi thơ Tam nguyên Yên Đổ như nó đã lọt qua cửa sổ đòi thơ Hồ Chí Minh: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” – Nhật kí trong tù. Hẳn là chỉ có trăng thu mới thâm quen với con người đến thế!

Bây giờ đến hoa thu. “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”, ý nhà thơ muốn nói: Mấy chùm hoa trước giậu đã nở từ năm ngoái nay lại đã trổ bông chăng? Và hoa thu chỉ là hoa cúc, một trong bốn loài hoa quý (lan, sen, cúc, mai) chọn mùa thu để trổ hoa.

Điểm xuyết cảnh thu là tiếng ngỗng trời từ từng trên không xa tít vọng lại. Âm thanh không líu lo nhưng con chim oanh học nói trong tiết xuân sang (Truyện Kiều) mà chỉ thoáng qua như nâng thêm tầm cao rộng rộng của không giang hẳn là đàn ngỗng bay nhanh về phương nam để tránh rét, tường bắt gặp trong kì thu muộn.

“Nhân hứng” mà tác giả đã vẽ xong bức tranh thu. Say theo cảnh trí thơ mộng nhưng rồi chợt tỉnh. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào – ông Đào Bành Trạch treo ấn từ quan từ hồi còn trẻ, trở về vui với cỏ hoa và non xanh nước biếc. Nguyễn Khuyến cũng đã vứt miếng đỉnh chung về ở ẩn tại quê nhà. Có lẽ danh nho Nguyễn Khuyến “thẹn với ông Đào” bởi ông từ cho là mình từ quan hơi muộn?

Với Thu vịnh, chúng ta cảm thu bằng “nhân hứng” chung mà nhà thơ để lại; với Thu điếu chúng ta có một thú vui nhỏ mà cũng rất hấp dẫn.

Nơi quê hương nhà thơ trước đây lắm ao, lắm vũng. Có lẽ không riêng gì Nguyễn Khuyến mà dân quê cả vùng nhất là các ông già, lúc rảnh rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả mồi đợi cá, coi đó là một thú tiêu khiển chăng? Đối với cụ Tam nguyên mùa thu câu cá quả là một lạc thú.

Ông đẩy thuyền xa bờ để được đắm mình trong thiên nhiên bao la trời nước một màu. Chỉ có câu kết nói đến chuyện thả câu, bài thơ chủ yếu ghi nhận những quan sát và cảm nhận của nhà thơ và cảnh vật đang diễn ra quanh mình. Ở đây mọi chi tiết đều được chắt lọc sao cho mỗi cảnh sắc chỉ cần điểm một nét, cộng hưởng thành màu sắc thu đích thực và độc đáo. Ông kết hợp tuyệt diệu hình ảnh và từ ngữ. Cả bức tranh có vẻ tĩnh lặng nhưng từng chi tiết thì động và gợi cảm.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo: nước tinh kết và lạnh gây cảm giác khẽ rùng mình. Thuyền câu vốn đã nhỏ bé khi nhập vào không gian bao la càng trở nên bé xíu “bé tẻo teo”. Ngư ông dường như cảm thấy mình quá bé trước tạo hoá!

Thuyền vừa xa bờ, cận cảnh dẫn đến một cảm giác thu mới: Phẳng lặng trong xanh vốn là đặc tính của mặt nước ao thu, hồ thu. Chỉ thế mà sau này Tản Đà viết: Trời xanh xanh, nước xanh xanh, khói lam xây thành: Màu biếc xao động khi gió thu khẽ khàng lướt qua. “Hơi gợn tí” nhưng cũng đủ mạnh để đưa chiếc lá già của cây cao gần bờ lìa cành “đưa vèo” xoay xoay giữa không gian theo chiều gió… Gió thu là như vậy.

Bình giảng hai câu 3-4, Xuân Diệu đã viết: “Thật tài tình! Nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, dễ tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: “tí”. Tác giả Đây mùa thu tới quả thật đã phát hiện đầy đủ tài nghệ của Nguyễn Khuyến.

Chắc là sau khi đã buông câu, nhà thơ mới có dịp ngẩng đầu nhìn trời và làng mạc vây quanh. Trời thăm thẳm một màu xanh, vài đám mây bạc lững lờ trôi như tôn thêm độ cao xa của không giang (Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt). Đường đi lối lại trong thôn viễn rặng trúc uống lượn vòng vèo không ồn ào náo nhiệt như những ngày mùa mà êm đềm u tịch. Nhà thơ “tựa gối ôm cần” chìm đắm vào cảnh vật tựa sống trong mơ…

Câu kết thức Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Tiếng động của cá đớp mồi đã trả nhà thơ về cõi thực. Nguyễn Khuyến là ông ngư trên chiếc thuyền nan mỏng mảnh.

Với Thu ẩm, nhà thơ Hà Nam đưa chúng ta về nhiều thời điểm khác nhau để cảm nhận vẻ đẹp mùa thu.

Mở đầu bài thơ, tác giả nói về một ngôi nhà xuềnh xoàng ở tận sâu trong làng Và (Vị Hạ) nơi cụ Thượng quan hưu trí thường độc ẩm để tìm cách lãng quên thế sự; bởi vì người xưa đã nói: “Chỉ có rượu mới phá được thành sầu”.

Từ “năm gian nhà cỏ” này ông nhập vào cảnh thu và quan sát những nét thu khi về chiều, vào đêm tối hay buổi trăng thu viên mãn. Thu ẩm thường diễn ra trong ngôi nhà này vào những thời điểm kể trên. Không có bóng dáng buổi mai hồng hay chính ngọ trong thơ thu. Phải chăng những thời điểm đó không hợp với tạng của nhà thơ? Hai buổi đêm và một buổi chiều lần lượt xuất hiện trong Thu ẩm.

Một đêm không trăng dày đặc bóng tối trùm lấp đường ngõ, “lập loè” ánh sáng đom đóm vây bủa đường thôn (Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè). Một đêm khác trăng soi vằng vặc “bóng trăng vàng từ mặt nước ao loé ra, bốn chữ 1 gợi chất vàng [đang dàn trải] ba dấu sắc khứ thanh gợi ánh bắn đi từ loa gợi [vòng tròn lan toả]” (Xuân Diệu). Nguyễn Khuyến dùng thần bút để cực tả đêm thu.

Một buổi chiều nhẹ thênh từ “nhà cỏ” hay từ bếp nhà ai toả ra làn khói lam chiều? Một nét thân thương và trìu mến biết bao! Và một buổi chiều khác không còn “tầng mây lơ lửng”, chỉ có da trời ửng màu biếc bao la vô hạn. Nét phác họa đặc thù này vốn là sở trường của Nguyễn Khuyến.

Phần kết, tác giả đã gửi gắm ít nhiều tâm sự: “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe… Độ năm ba chén đã say nhè”. Đâu phải vô cớ mà mắt lão Nguyễn “đỏ hoe”. Cũng không phải vô cớ mà lão uống ít say nhiều (say không tự chủ được sinh lè nhè). Ông uống rượu để tiêu sầu nhưng sầu đâu có dứt!

Trong bộ ba thơ thu tuy tác giả không trực tiếp nói đến nhưng vẫn không sao che giấu nổi: Tâm sự nước non đầy vơi dường như chi phối cả cuộc đời và cảm hứng thơ văn của tác giả. Quý thay Nguyễn Khuyến!

Ba bài thơ thu là những viên ngọc quý trong vườn thơ Việt Nam. Nó đậm đà màu sắc quê hương đất nước. Hình tượng và ngôn ngữ thơ đạt đến đỉnh cao của sự giản dụ mà đầy chất thơ. Từ nét bút tạo hình đến các thủ pháp nghệ thuật khác như sử dụng từ ngữ trau chuột, chính xác, đối ngẫu rất chỉnh, gieo vần phong phú độc đáo (kể cả tử vận). kết hợp nhạc điệu và âm thanh tinh tế… cả ba bài đều viết theo thể thơ Đường hoàn chỉnh nhưng người đọc không có cảm giấc đó là thể thơ ngoại lai. Nối gót nữ sĩ Hồ Xuân Hương và các nhà thơ Nôm lớp trước, Nguyễn Khuyến đã góp phần Việt hoá đến kì tài thể thơ nhập ngoại này.

Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm xứng đáng được trao giải nhất trong toàn bộ thơ về làng cảnh Việt Nam.

Posted in Ngữ Văn Lớp 11 | Tagged , , | Leave a comment

Tuyển sinh các trường quân đội 2015: Những thông tin mới nhất

Sáng 22/1, Cơ quan Thường trực Ban tuyển sinh quân sự (TSQS) Bộ Quốc phòng cho biết: Thượng tướng Phạm Xuân Hùng, Phó trưởng ban thứ nhất, Ban TSQS Bộ Quốc phòng vừa ký công văn thông báo các môn thi, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia để xét tuyển vào các trường đại học, cao đẳng trong quân đội năm 2015.

Công văn được gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo để báo cáo, đồng thời gửi Ban tuyển sinh các cơ quan, đơn vị, học viện, nhà trường quân đội để tổ chức thực hiện.

Khối ngành quân đội tuyển sinh 2015

Khối ngành quân đội tuyển sinh 2015

Tuyển sinh trường quân đội

Ban tuyển sinh quân sự vừa cung cấp thông tin các môn để xét tuyển vào các trường ĐH, CĐ trong quân đội năm 2015.Trong thông báo của Ban TSQS Bộ Quốc phòng đã thông tin cụ thể các trường, ngành đào tạo (cả hệ quân sự và dân sự) trong các học viện, trường quân đội sẽ tổ chức tuyển sinh năm 2015.

Thí sinh sẽ biết địa chỉ ký hiệu trường, mã ngành, đặc biệt là các môn thi (tổ hợp môn thi xét tuyển đại học, cao đẳng) và những nội dung có liên quan làm cơ sở để nghiên cứu, lựa chọn đăng ký dự thi và đăng ký xét tuyển vào học trong các trường quân đội theo đúng quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo và quy định của Bộ Quốc phòng.

 Thông tin chi tiết xem tại đây!

Posted in Uncategorized | Tagged , , | Leave a comment

Tìm hiểu bài ca dao “Tát nước đầu đình”.

Tình yêu lứa đôi là một đề tài muôn thuở trong thi ca và kho tàng ca dao, dân ca của dân tộc. Thông qua vần điệu nhịp nhàng, thân thuộc của những bài ca dao, người nghe như cảm nhận được những tình cảm tha thiết, mặn nồng nhưng rất trong sáng mà những chàng trai, cô gái muốn dành cho nhau. Bài ca dao “Tát nước đầu đình” đã thể hiện hết được những xúc cảm đó.

Người xưa thường nói “vạn sự khởi đẩu nan”, tức là mọi việc khó nhất là ở khâu mở đầu. Mở đầu cho một câu chuyện tỏ tình vốn là câu chuyện hết sức tế nhị, kín đáo thì lại càng khó khăn gấp bội. (Có lẽ, vì thế nên từ xa xưa, ông bà ta thường phải nhờ cậy vào người làm mối để tạo cầu nối giữa đôi trai gái, để giúp họ (nhất là bên người con trai) vượt qua được bước đầu khó khăn này). Tuy vậy, tình yêu vốn huyền diệu, nên ở mỗi thời, ở mỗi hoàn cảnh, người con trai thường có cách thức riêng để đạt mục đích ấy, đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét; “Khi trong lòng đã có chút tình ý, người ta bỗng nhiên có những sáng kiến, những ve vãn, những thông minh, những hát ca…”. Để làm quen, để bắt chuyện với cô gái mà mình đã thầm yêu vụng nhớ, có ngưòi ngỏ lời xin gáo nước:

Hỡi cô gánh nước quang mây

Cho anh gáo nước tưới cây ngô đồng.

Người thì lại tình nguyện xin được cùng cắt cỏ:

Cô kia cắt cỏ một mình

Cho anh cắt với chung tình làm đôi.

Cô còn cắt nữa hay thôi,

Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

Phân tích bài ca dao "Tát nước đầu đình"

Phân tích bài ca dao “Tát nước đầu đình”

Còn chàng trai – nhân vật trữ tình trong bài ca dao này đã khéo léo tìm được cái cớ là xin cái áo bỏ quên. Anh ta mở đầu:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen

Như vậy, việc bỏ quên cái áo được giới thiệu thật cụ thể: có thời gian (hôm qua), có không gian (đầu đình) và gắn với một công việc lao động quen thuộc của người nông dân là “tát nước”. Vị trí cái áo bỏ quên cũng được xác định cụ thể “trên cành hoa sen”. Câu chuyện tưởng như có lí, thậm chí được trình bày khá chính xác, nhưng kì thực lại rất vô lí, khiến người đọc bài ca phải băn khoăn: Sen làm gì có cành? Có ai dại dột để áo lên hoa sen yếu ớt? Thì ra, đây chi cái cớ được chàng trai sáng tạo, để có cơ hội giãi bày lời tỏ tình mà mình đã ấp ủ từ lâu. Và điều quan trọng là những câu mở đầu này gợi ra được cả một khung cảnh quen thuộc, có những hình ảnh dường như đã trở thành ước lệ khi nói về nông thôn Việt Nam. Đình làng vốn là nơi thờ cúng, song đồng thòi nó cũng là nơi diễn ra những hội hè đám, là nơi gặp gỡ hẹn hò của bao thế hệ trai gái quê ta. Chả thế, từ xa xưa đâ có câu hát xao xuyến lòng người:

Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu

Bên cạnh hình ảnh “đầu đình” còn có hình ảnh của “hoa sen” bình dị “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Những hình ảnh nói trên ít nhiều đã tạo nên ở cô gái và người đọc một trường lý tưởng thẩm mĩ và chứng tỏ nhân vật chàng trai đây là một nông dân vừa gắn bó với nghề nông vừa không kém phần tinh tế trong việc tạo nên cái cớ để tiếp cận cô gái. Hơn nữa, nếu đặt hai câu mở đầu trong hoàn cảnh diễn xướng, ngoài ngôn ngữ của bài ca, còn có “ngôn ngữ” cùa đôi mắt tình tứ, của nụ cười đằm thắm…, thì không ai nghĩ ràng, cô gái sẽ chỉ ra cái vpp lí của chàng trai, trái lại chắc rằng cô sẽ tiếp nhận câu chuyện một cách tự nhiên, hồn nhiên và xem đấy như là cách nói hoa mĩ làm đẹp lòng người nghe của một chàng trai tinh tế, có văn hoá giao tiếp. Vả lại cô gái có lạ gì cách nói hoa mĩ ấy. Nó vẫn thường thấy trong ca dao, giúp trai gái bộc bạch những tình cảm của mình một cách kín đáo đáng yêu:

Bây giờ mận mới hỏi đào:

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?

Mận hỏi thì đào xin thưa:

Vườn hồng có lối, nhưng chưa ai vào.

Như thế cũng có nghĩa là lời mở đầu đã được chấp nhận, bởi sự khéo léo, tinh tế của chàng trai. Tiếp theo, anh ta đưa ra lời ướm thử:

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà?

Câu đầu buông ra tự nhiên. Người để quên hỏi vu vơ, may ra nhận được vật cũ cũng là lẽ thường tình. Nhưng đến câu thứ hai rõ ràng có sự chuyển biến đột ngột, bất ngờ, tạo nên một sự ràng buộc thật khó chối từ. Và nghiễm nhiên, cô gái bỗng trở thành đương sự, được đưa vào trong cuộc một cách tự nhiên, ở cái tuổi trăng tròn, khoé mắt và nụ cười đều biết nói, cô hiểu được mục đích cuộc trò chuyện này, và biết rằng mình đang đối diện với một chàng trai thông minh, tế nhị nhưng cũng đầy chất nam tính vừa hào hoa vừa chân thật, vừa láu lỉnh vừa rất đỗi táo bạo và tự tin…

Có lẽ cô gái khó tránh khỏi sự lúng túng trước sự dắt dẫn câu chuyện qua đột ngột của chàng trai chãng. Dường như đoán được tâm trạng ấy, chàng trai liên kể tiếp câu chuyện với những lời thật chân thành và ngọt ngào:

Áo anh sứt chỉ đường tà …

Áo anh sứt chỉ đã lâu.

Như trên đã nối chiếc áo bỏ quên chỉ là cái cớ để chàng trai giãi bày lời tỏ tình. Đến đây, hình ảnh chiếc áo lại được nhấc đến một lần nữa. Có phải từ xa xưa, tấm áo, chiếc khăn là những vật dụng hàm chứa nhiều khả nảng làm cho con tim người thiếu nữ dễ dàng rung động? Bởi có lẽ chúng đánh thức thiên chức vá may của họ trong cuộc sống gia đỉnh. Trong ca dao không hiếm những câu, người phụ nữ nói về tấm áo thật cảm động, như:

Chồng ta áo rách ta thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

hay:

Áo xông hương của chồng vắt mắc

Đêm em nằm, em dấp lấy hơi.

Do đó, có thể nói, chàng trai hoàn toàn có dụng ý khi nhắc đến chiếc áo. Và điều đáng lưu ý nữa là sự nhắc lại này được diễn ra hết sức tự nhiên. Vì bất cứ ai muốn nhận lại của đã mất thì việc đầu tiên là phải mô tả lại vật đó. Đặc điểm lớn nhất của tấm áo mà anh con trai nói đến là “sứt chỉ” ở “đường tà” anh không nói màu gì, dài rộng ra sao; áo anh chỉ “sứt chỉ” và “sứt chỉ đã lâu”, chứ không bị rách. Như vậy, anh chỉ thiếu người khâu vá, mong có người khâu vá “từ lâu” chứ không phải là kẻ túng bấn. Anh gợi tình yêu chứ chẳng cẩn lòng thương hại. Bởi lẽ từ thương hại đến coi thường chỉ là gang tấc, mà bị coi thường thì làm sao có tình yêu. Đến đây, một lần nữa, cô gái và người đọc không thể không cảm nhận được tình cảm thiết tha và tư thế đàng hoàng của nhân vật trữ tình trong khi bày tỏ tình yêu.

Nhưng, tất cả những chi tiết nêu trên chẳng qua chủ yếu cũng chỉ là phần “dẫn dắt” để chàng trai đưa ra được thật đúng lúc thông tin quan trọng nhất sau đây:

Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.

Nhờ chiếc áo sứt chỉ anh giới thiệu được trọn vẹn nét chính yếu trong bản “Sơ yếu lý lịch” của mình, giải đáp được nỗi băn khoăn thường thấy của những cô gái trước khi nhận lời đính hôn. Điều quan trọng hàng đầu là anh chưa có vợ, anh vẫn hoàn toàn đơn chiếc và có mẹ già, tức là có một chỗ nương tựa tuyệt vời: “Mẹ già bằng ba lần cửa”. Gia đình anh ổn định; quá khứ và hiện tại của anh không có điểu gì bất bình thường khiến cồ gái phải đắn đo, trái lại nó có thể hứa hẹn một cuộc sống êm ấm hạnh phúc.

Đến đây, trái tim cô gái chắc đã cố ít nhiều rung động, song cũng khó tránh khỏi sự e thẹn. Chàng trai liền chuyển cách xưng hô cụ thể, xác định “anh” – “em”, bằng cách sử dụng đại từ ngôi thứ ba “cô ấy”, như một đại từ phiếm chỉ, nhưng vẫn khá xác định trong văn cảnh cũng như trong mạch trữ tình của bài ca:

Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Mặc dù “cô ấy” có thể hiểu là cô Hổng, cồ Huệ nào đó, nhưng đây khồng thể có cồ nào khác ngoài người đang nói chuyện với anh.

Như thế, chính từ “cô ấy” làm cho câu chuyện về việc trăm năm thành kín đáo, tế nhị, “giữ” người con gái, cho dù là người cả thẹn, vẫn có thể nán lại nghe anh nói tiếp ! Ở thời điểm này chi cẩn thô vụng một chút, suồng sã một chút, cô gái cũng có thể bỏ đi (vì e thẹn hoặc vì tự ái) và việc tỏ tình sẽ thất bại. Ở đây, chàng trai đã “giữ” được cô gái lại không những bằng sự chân thành thiết tha mà còn bằng sự khôn khéo trong việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp. Vào những trường hợp như thế, lối nói vòng vo, lấp lửng nhiều khi lại tỏ ra rất hiệu quả.

Đến đây, có thể hiểu chàng trai không những mang ơn cô gái (vì đã trả lại áo) mà anh còn phải trả công (theo lẽ thường tình) vì cô đã khâu hộ áo. Chàng trai đã trả công cô thật chu đáo, thật hào phóng:

Khâu rồi anh sẽ trả công

Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.

Giúp em một thúng xôi vò

Một con lợn béo một vò rượu tăm

Giúp cho đôi chiếu em nằm

Đôi chăn em đắp đôi trầm em đeo.

Giúp em quan tám tiền cheo

Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

Bằng biện pháp điệp từ, điệp ngữ và điệp cấu trúc câu, đoạn ca này đột ngột chuyển sang một “gam” khác. Nhạc điệu dường như mạnh và nhanh hơn, thể hiện một niềm hào hứng, hân hoan. Tất cả đổ sính lễ trình ra không thiếu thứ gì, số lượng dổi dào, chất lượng tuyệt diệu. Chắc chắn cô gái cũng như mọi người không ai ngây thơ đến nỗi tưởng lễ cưới này cố thật, tưởng chàng trai kia là giàu có. Nhưng cô gái vẫn có quyền hãnh diện vì qua lời hứa hẹn chứng tỏ chàng kia trân trọng và yêu cô đến chừng nào. Như vậy, ngôn ngữ giàu màu sác khoa trương chắc hẳn được cô gái hiểu ý và lĩnh hội một cách trọn vẹn; và một lần nữa chàng trai lại thành công – thành công bằng sự khôn khéo, chân thành với mong ước tình yêu sẽ được kết thúc bằng hôn nhân, với khát vọng và niềm tin được sống trong phong lưu, sung túc.

Với một tình huống hết sức độc đáo: bỏ quên chiếc áo, chàng trai đã khéo léo dựa vào đó để thổ lộ tấm lòng mình một cách tinh tế với cô gái. Tình cảm tha thiết, chứa chan trong từng vần thơ cho ta cảm nhận được  một khát khao về hạnh phúc, về cuộc sống lứa đôi của người dân lao động cần lao.

Posted in Ngữ Văn Lớp 12 | Tagged , | Leave a comment

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Đò Lèn.

Hình ảnh người bà là một đề tài chưa bao giờ cũ trong nền văn học Việt Nam. Nếu Bằng Việt có hình ảnh người bà hiện lên bếp lửa ấp ưu nồng đượm, thì ở Nguyễn Duy ta lại nhìn thấy hình ảnh của người bà sớm hôm tảo tần với những buôn bán ngược xuôi vất vả. Đấy chính là hình ảnh người bà trong tác phẩm “Đò Lèn”.

Mở đầu bài thơ tác giả còn vẽ lên trước mắt người đọc hình dáng  một cậu bé tinh nghịch với những thú chơi của trẻ nhỏ:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

Cậu bé ấy chính là nhà thơ Nguyễn Duy, hình ảnh nhà thơ hồi bé hiện lên thật nghộ nghĩnh khi bắt cá, khi níu áy bà đi chợ. Không những thế trong tâm tưởng của cậu bé ấy còn không biết đên sự uy nghiêm của nơi Phật tại vậy nên với dẫn đến những trò chơi mà không sợ bị đức Phật quở trách. Đó chính là hành động bắt chim sẻ trên vành tai Phật Tổ và ăn trộm nhãn chùa Trần. chính sự ngây thơ đã cho cậu bé Nguyễn Duy của chúng ta không biết sợ và qua đó ta thấy Nguyễn Duy có một tuổi thơ giống như những cậu bé thôn quê, nghịch ngợm thật đấy nhưng đối với trẻ con quê thì hành động vặt trộm nhãn chùa Trần không phải xấu xa như cái tên ăn trộm mà cơ bản đó chỉ là một trò nghịch ngợm của trẻ con làng quê.

Hình ảnh của cậu bé Duy tinh nghịch khi đi lễ phật với bà. Cậu hiếu động nghịch ngợm và cậu vẫn rất còn bé để hiểu rõ sự tôn nghiêm nơi cửa Phật:

“Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”

Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy

Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy

Đó là những kí ức đẹp của nhà thơ với người bà của mình, cái tuổi thơ ấy êm đềm hơn khi có bà bên cạnh. Bà đi đâu cũng mang theo nhà thơ theo, chính vì thế có thể nói rằng tuổi thơ của nhà thơ gắn chặt với hình ảnh người bà. Nếu nhà thơ Bằng Việt có tuổi thơ gắn liền với bà và những hình ảnh thân thương của bếp lửa thì Nguyễn Duy lại có những kỉ niệm thật đẹp bên bà và những lần cùng bà đi lễ phật đi chợ chơi. Đó là những khoảnh khắc vô cùng đáng nhớ tuổi cậu còn nhỏ quá, nhỏ đến mức cậu vẫn đi chân đất đi xem lễ Đền Sòng. Có thể thấy tuổi thơ không gắn chặt với những hình ảnh cánh đồng thơm mát, những cánh diều mơ ước được thả trên nền trời xanh kia mà đó chính là những khoảnh khắc nghịch ngợm của cậu bé ấy ở những lễ đền và chùa. Cậu nghịch ngợm trên không gian uy nghi ấy và nghịch trong chính những hương thơm của hương trầm. Và một điệu hát văn với hình dáng lảo đảo của cô đồng đã mang ghi dấu trong tâm trí non nớt của cậu bé ấy.

Và chính sự ngây thơ ấy đã làm cho cậu bé chưa hiểu được sự cơ cực vất vả của bà. Ngay đến cả sự uy nghi của cửa Phật cậu còn không biết huống chi những nỗi vất vả của bà. Như thế mới nói trẻ em tâm hồn chúng như những tờ giấy trắng vậy, sự trong sáng ngây thơ của chúng lại trở thành sự vô tâm với những người thân yêu của mình. Nhưng điều đó chỉ xét trong trường hợp khi sau này chính những đứa trẻ ấy ngẫm lại chứ không phải là trách chúng vì vốn dĩ như thế mới được gọi là một đứa trẻ:

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

Tác giả nói “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế” như một lời trần thuật nói về những gì mà bà đã phải trải qua nhưng tâm hồn của nhà thơ lúc đó không thể hiểu được vất vả cơ cực là gì. Tâm hồn ấy chỉ dành cho những thú vui những trò chơi mà thôi. Bà không những phải mò cua bắt tép mà bà còn phải gánh chè xanh đi bán nữa. Có thể nói ở cái tuổi của bà mà lại phải vất vả cơ cực như thế. Đến bây giờ nhà thơ nghĩ lại bỗng như nhận ra những gì thơ ơ của mình. Những địa danh kia được nêu tên thật cụ thể như chứng nhân công nhận cho những hi sinh vất vả của bà vì đứa cháu yêu. Bà không chỉ làm ngày mà còn làm đêm nữa, những đêm lạnh bà cũng đi Quán Cháo, Đồng Giao. Có thể nói hai chữ “thập thững” đã lột tả tất cả những sự khó khăn và nguy hiểm đối với tuổi tác cũng như sự già yếu của bà. Thế nhưng ngày nào cũng như ngày nào bà làm công việc ấy để vì đứa cháu yêu.

Tuổi thơ của Nguyễn Duy còn phải trải qua những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chính cái tuổi thơ ấy đã thấm thía những gì là nghèo đói trong Nguyễn Duy. Hình ảnh củ rong giếng luộc sượng đã cho thấy sự nghèo đói về khắp đất nước. Thế nhưng người bà tần tảo kia không chỉ là một người bà mà còn giống như một người cha, người mẹ vẫn ngày đêm cực khổ kiếm từng đồng một để nuôi cậu bé Nguyễn Duy. Chính vì thế mà nhà thơ không phân biệt được người bà của mình với nhưng nhân vật siêu nhiên kia. Bà giống như tiên như phật vậy:

“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần

cái năm đói củ dong riềng luộc sượng

cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”

Thế rồi không những cảnh đói mà tuổi thơ bên người bà kính yêu ấy của nhà thơ còn phải trải qua những năm tháng vô cùng ác liệt với bom đạn của chiến tranh:

“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”

Đó là những ngày tháng khó khăn trong cuộc đời tác giả và người bà của mình. Hình ảnh nhà bà bay cũng như những đến Sòng, chùa chiền bay, thánh với phật rủ nhau đi đâu hết đã lột tả hết sự gian ác khốc liệt của cuộc chiến tranh ấy. Bà lại phải đổi nghề khác đó chính là bán trứng ở ga Lèn. Những hình ảnh kia như nói lên được sự khủng khiếp của chiến tranh nó không chỉ phá mất nhà của hai bà cháu mà ngay cả chỗ linh thiêng như chùa chiền cũng bị bom đạn làm cho biến mất tàn trụi.

Và giờ đây khi người cháu ấy đã lớn khôn hiểu ra những nỗi vất vả cơ cực của bà thì đã quá muộn bà đã ra đi và đến bên thế giới bên kia. Nhưng sự ra đi của bà không làm cho bà mất đi trên cõi đời này vì bà luôn còn sống mai trong chính tâm tưởng tình cảm của người cháu thân yêu:

“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại

dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi

khi tôi biết thương bà thì đã muộn

bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”

Dù cho tác giả đã đi lính nhưng thời gian thì cứ trôi dòng sông thì vẫn ngày đêm bên lở bên bồi, và bà ngoại thì cũng cứ già thế nên khi tác giả nhận ra những tình cảm và sự cơ cực của bà thì đã quá muộn. bây giờ bà chỉ còn một nấm cỏ khô mà thôi.

Kết lại bài thơ là một nỗi buồn, nỗi nhớ thương hoài cổ. Hình ảnh người bà tảo tần với những buôn bán ngược xuôi, với những lo toan trong cuộc sống, với tình yêu thương vô bờ dành cho cháu sẽ vẫn mãi luôn in sâu trong tâm trí người đọc. Bà về với đất, “chỉ còn là một nấm cỏ thôi” nhưng hình bóng bà vẫn mãi còn đó, mãi dõi theo cháu trong suốt cả cuộc đời.

Posted in Ngữ Văn Lớp 12 | Tagged , , | Leave a comment

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ “Bên kia sông Đuống”.

Hồn thơ Hoàng Cầm là một hồn thơ dân dã và bình dị. Thơ ông luôn gắn liền với những hình ảnh thân thuộc của quê hương và con người Kinh Bắc. Tiêu biểu cho hồn thơ đó chính là bài thơBên kia sông Đuống”.

Ngay trong khổ đầu của bài thơ, chúng ta đã cảm nhận được tình yêu quê hương nồng nàn, tha thiết, cùng với nỗi căm thù sục sôi đối với quân giặc bạo tàn. Bên kia sông Đuống chính là nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ, nơi có mẹ già, vợ dại, con thơ đang ngày đêm trông ngóng. Nơi ấy đang bị quân thù dày xéo không thương tiếc, xót xa:

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay 

 

Đi vào những vần thơ hay chính là những dòng tâm sự của Hoàng Cầm ông bày tỏ luôn những tâm trạng và sự xót xa của mình qua tiếng gọi tha thiết em ơi:

“Em ơi! Buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì”

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Bên kia sông Đuống

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Bên kia sông Đuống

Tâm trạng ấy dồn nén và muốn bộc lộ luôn ngay trên những dòng thơ đầu tiên của bài. Nó càng thể hiện sự đau xót của bản thân tác giả lớn đến nhu thế nào. Cái sự lớn của nỗi đau đớn xót xa ấy không thể kìm nén được vội vàng bật lên đầy trào dâng. Tiếng gọi “em ơi” cùng với xưng hô “anh” nó là lối xưng hô được thể hiện trong nhiều bài thơ từ ca dao tình nghĩa cho đến thơ hiện đại như bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. lối xưng ấy có hiệu quả nhất định, nó thể hiện sự gần gũi dễ nó bởi khi người ta yêu nhau thì không còn gì khó nói nữa. Thế nhưng nếu ca dao thắm thiết ngọt ngào qua những dòng thơ đầy ẩn ý, nếu Nguyễn Khoa Điềm dùng lối xưng hô ấy thầm thì như những lời thủ thỉ trong tình yêu khiến cho hình ảnh đất nước càng gần gũi thân thiết thì Hoàng Cầm lại dùng nó để thể hiện nỗi xót xa trong lòng mình. Tiếng gọi tha thiết ấy như mang đến chúng ta những tình cảm Hoàng Cầm đang cất giữ trong lòng. Khuyên người em kia đừng buồn nhưng thật ra lại là khuyên chính mình. Hình ảnh ngày xưa cát trắng phẳng lì thể hiển sự nhơ nhung đến sông Đuống những ngày quân giặc kia chưa đến.

Sang đến những câu thơ sau tác giả thê hiện rõ hơn những tâm trạng của mình qua việc nhắc đến con sông Đuống với những hình ảnh thật sự rất đẹp và hào hùng:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai xanh biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”

Trước tiên tác giả nói về vẻ đẹp của con sông Đuống, hàng ngàn năm qua nó vẫn soi mình lấp lánh, nhân dân hai bên bờ sống nhờ nguồn nước của nó. Những buổi bình minh nắng chiếu đẹp sông cũng như góp phần cho cảnh đất nước quê hương mình đẹp lên khi soi mình qua nắng để lấp lánh vỗ về hai bên bờ. Không chỉ ánh nắng ban ngày mà khi về đêm con sông ấy cũng hiền hòa soi mình dưới ánh trăng khiến dòng nước ấy như nhuộm màu vàng bạc. Thật vậy con sông ấy còn quý giá hơn vàng bạc ấy chứ bởi nó nằm đây biết bao nhiêu đời này gắn bó với nhân dân nó không chỉ là nguồn sống vật chất mà nó còn là linh hồn của những con người Kinh Bắc. Và cho đến hôm nay khi chiến đấu chống giặc ngoại xam nó vẫn nằm đấy nghiêng nghiêng dưới kháng chiến trường kì. Hai bên bờ những mía nương dâu kia hiện lên thật đẹp với màu xanh của “hàng dâu xanh ngắt một màu”. Rồi lại ngô khoai xanh biếc nữa. Qua đây ta thấy được những hình ảnh gần gũi thân thương ấy thật giản dị mà thi vị, nào dâu, sắn, mía ngô tất cả làm nên những cảnh đẹp ngàn đời của Kinh Bắc.

Tả cảnh như vậy đến cuối cùng nhà thơ cất lên những tiếng xót xa rơi rụng cả bàn tay , chính cái cảnh đẹp hiển nhiên ấy khiến cho nhà thơ âu lo những bom đạn kia sẽ phá hủy đi những gì đẹp đẽ của quê hương mình:

“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”

Nghệ thuật so sánh thật đặc sắc đã làm cho ta thấy được nỗi lòng của tác giả. Nhìn cảnh quê hương đang bị tàn phá, ngẫm đến cảnh mẹ già, vợ con mình tác giả đau xót như gãy đi cánh tay của mình vậy. Có thể nói nỗi đau ấy không chỉ ngấm trong tim nữa mà nó còn lan ra khắp cơ thể.

Chỉ qua đoạn đầu của bài thơ, ta đã cảm nhận được tấm lòng của Hoàng Cầm: Không đơn thuần chỉ là tình yêu với quê hương, xóm làng. Rộng ra nữa, đó là tình cảm chứa chan mà nhà thơ muốn dành cho đất nước, cho toàn dân tộc. Nhìn quân thù giày xéo lên mảnh đất quê hương, có lòng ai không thương xót. Mỗi câu thơ được viết ra như tiếng lòng của người con yêu nước, đau đớn mà chứa chan niềm xót xa.

Posted in Ngữ Văn Lớp 12 | Tagged , , | Leave a comment